Việc theo dõi những cạnh tranh quốc tế trong lĩnh vực bất động sản và logistics là cần thiết, vì phân khúc này đang có xu hướng bùng nổ không chỉ ở Châu Á Thái Bình Dương mà còn trên toàn cầu.
Bất động sản và logistics đang được coi là xu hướng đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam trong thời gian gần đây và dự kiến sẽ tiếp tục tăng mạnh trong thời gian tới. Lee Jong Seob – Chủ tịch Cơ quan Xúc tiến Thương mại và Đầu tư Hàn Quốc (KOTRA) tại Đông Nam Á-Châu Đại Dương và Giám đốc điều hành của KOTRA tại Hà Nội – cho biết các công ty Hàn Quốc đã và đang đầu tư mạnh mẽ vào thị trường bất động sản và logistics của Việt Nam.
“Tôi nghĩ đây là hướng đi đúng đắn vì việc đầu tư vào kho bãi và vận tải là rất quan trọng cho sự phát triển của các ngành công nghiệp Việt Nam. Và vì các lĩnh vực bất động sản và xây dựng có thể phản ánh tình hình kinh tế quốc gia, việc các ngành này đang trên đà khởi sắc cho thấy nền kinh tế Việt Nam có khả năng sớm phục hồi.” – ông nói với The Hanoi Times.
David Jackson – Giám đốc điều hành của Colliers tại Việt Nam – cho biết ông đã chứng kiến sự quan tâm ngày càng tăng của các nhà đầu tư Hàn Quốc đối với thị trường bất động sản công nghiệp của Việt Nam, bao gồm các cơ sở sản xuất, kho bãi và hậu cần, đặc biệt là ở các khu vực phía Bắc. Theo phân tích của ông, Chính phủ Việt Nam đang đẩy mạnh đầu tư công vào phát triển cơ sở hạ tầng cũng như ban hành các chính sách khuyến khích đầu tư nhằm thúc đẩy kinh tế phục hồi nhanh chóng và thúc đẩy tăng trưởng dài hạn. Sự thay đổi hành vi của người tiêu dùng sang mua sắm trực tuyến và thanh toán không dùng tiền mặt sau đại dịch đã thúc đẩy sự mở rộng của thương mại điện tử, nhà kho, cơ sở sản xuất và hậu cần, do đó thúc đẩy nhu cầu về sở hữu công nghiệp và hậu cần trong nước.
Đại dịch Covid-19 đã làm trì hoãn các cuộc khảo sát của các nhà đầu tư Hàn Quốc đối với các kế hoạch đầu tư mới tại Việt Nam. Tuy nhiên, việc mở lại các chuyến bay quốc tế trong quý đầu tiên của năm nay đã cho phép họ tiếp tục hoạt động của mình, theo một số chuyên gia trong nước.
1. Dự án trọng điểm
Trong báo cáo mới nhất do Savills Việt Nam thực hiện vào tháng 6, Andrew Lee – Giám đốc cấp cao của Bộ phận Phát triển Kinh doanh Hàn Quốc – lưu ý rằng các doanh nghiệp Hàn Quốc đang tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư để gia nhập và mở rộng thị trường bất động sản Việt Nam. Ông kỳ vọng nhiều dự án bất động sản sẽ được triển khai trong nước trong thời gian tới.
Trong số các dự án do Hàn Quốc đầu tư tại Việt Nam, Công viên cây xanh Nam Bình Xuyên do Tập đoàn YSL đầu tư tại tỉnh Vĩnh Phúc, là một dự án mới. Với vốn đầu tư 2 tỷ USD, dự án sẽ cung cấp quỹ đất và tài sản công nghiệp hiện đại cho các nhà đầu tư trong các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao như thiết bị điện, trung tâm dữ liệu, hậu cần. Dự án dự kiến sẽ ra mắt vào quý 2 năm 2023.
Kwak Il Hwan – Phó Chủ tịch Tập đoàn YSL – cho biết mặc dù đại dịch Covid-19 để lại hậu quả nặng nề cho nền kinh tế trong hai năm qua, nhưng Việt Nam là một trong những quốc gia trên thế giới ứng phó tốt với đại dịch, ổn định lạm phát cũng như phục hồi phát triển kinh tế. “Thực tế, trong nửa đầu năm nay, Việt Nam liên tục thu hút các nhà đầu tư lớn trong nhiều lĩnh vực”, ông nói với The Hanoi Times. “Cả nước tự hào có nhiều địa phương có lợi thế về địa lý, hạ tầng giao thông phát triển. Do đó, chúng tôi tin rằng Việt Nam vẫn là điểm đến lý tưởng cho các doanh nghiệp muốn đa dạng hóa danh mục và tránh phụ thuộc vào một trong các chuỗi cung ứng”.
Ở một góc độ khác, Colliers tại Việt Nam, một nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp đa dạng và là công ty quản lý đầu tư, cũng chỉ ra rằng Chính sách phương Nam mới + của chính phủ Hàn Quốc đã mở đường cho việc mở rộng hơn nữa vào khu vực Đông Nam Á của các công ty Hàn Quốc, không chỉ để đa dạng hóa sản xuất và chuỗi cung ứng, mà còn mở rộng sang các lĩnh vực hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng đô thị và thành phố thông minh. Ông nói thêm rằng trong lĩnh vực bất động sản công nghiệp và hậu cần, nhiều tiềm năng lớn đang chờ đợi nhờ Chính phủ Việt Nam cam kết mạnh mẽ thúc đẩy đầu tư công vào cơ sở hạ tầng và phát triển các khu công nghiệp mới trên khắp cả nước, đặc biệt là ở các tỉnh phía Bắc xung quanh Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Trên thực tế, các chủ đầu tư Hàn Quốc đang nắm bắt cơ hội với những dự án lớn như Lotte Eco Smart City Thủ Thiêm của Lotte E&C hay Khu đô thị mới Nhà Bè Zeitgeist của GS E&C.
Là một trong những nhà phát triển bất động sản lớn nhất, Lotte Land Việt Nam, công ty con của Lotte E&C, tin rằng nhiều nhà đầu tư Hàn Quốc hiện nay cũng tập trung hơn vào các bất động sản hậu cần.
Ông Kim Young Ju – Tổng Giám đốc Lotte Land – cho biết một loạt các yếu tố bao gồm thị trường thương mại điện tử Việt Nam đang phát triển với sự thúc đẩy mạnh mẽ hơn từ đại dịch Covid-19, sự thành công to lớn của một số nền tảng thương mại điện tử phổ biến bao gồm Shopee và Lazada, việc di dời nhà máy của nhiều nhà sản xuất toàn cầu từ Trung Quốc sang Việt Nam và kim ngạch thương mại tăng đang thúc đẩy nhu cầu về cơ sở hạ tầng hậu cần tiên tiến hơn. “Chúng tôi đang kỳ vọng ngành công nghiệp hậu cần, bao gồm bất động sản hậu cần (nhà kho, cơ sở phân phối, trung tâm vận hành) sẽ tiếp tục mở rộng. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng để tìm một số vị trí thích hợp cho phát triển logistics, chúng tôi đã mua được hai khu đất ở miền Nam Việt Nam. Mỗi khu đất nằm trong khu công nghiệp với cơ sở hạ tầng xung quanh đã đầy đủ và sẵn sàng”, ông nói với The Hanoi Times.
“Chúng tôi đang phát triển kinh doanh chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh nhưng chúng tôi vẫn mong muốn mở rộng kinh doanh sang các địa phương khác, phù hợp với sự phát triển của Việt Nam để nâng cao giá trị thương hiệu Lotte tại Việt Nam.”, ông nhấn mạnh. Giám đốc điều hành của Colliers tại Việt Nam cho biết điều đáng chú ý là phải theo dõi cạnh tranh quốc tế khi bất động sản công nghiệp và logistics đang gia tăng không chỉ ở Châu Á Thái Bình Dương mà còn trên toàn cầu.
2. Triển vọng cho Việt Nam
Theo Colliers tại Việt Nam, Hàn Quốc là một trong những nhà đầu tư đầu tiên tiến vào thị trường Việt Nam trong những năm 1990 và kể từ đó trở thành một trong những đối tác đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn nhất của nước ta. Với việc không ngừng cải thiện chính sách đầu tư, ưu đãi thuế, nhanh chóng tháo gỡ vướng mắc, Việt Nam đã có những bước tiến dài trong việc hạ thấp rào cản gia nhập đối với các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có các doanh nghiệp Hàn Quốc.
Số liệu mới nhất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, mặc dù chịu ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, Hàn Quốc vẫn đứng thứ hai trong số các quốc gia đầu tư vào Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2022 với tổng vốn đầu tư lũy kế vào Việt Nam là 2,06 tỷ USD, chiếm 17,6% trong tổng số, tăng 12,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến ngày 20/5, Hàn Quốc đứng đầu danh sách các nhà đầu tư nước ngoài với gần 79,1 tỷ USD, chiếm 18,6% tổng vốn đầu tư.
Giám đốc điều hành của Colliers tại Việt Nam cho biết thêm: “Tất cả những dữ kiện và thực tế nêu trên đều cho thấy sức hấp dẫn của thị trường Việt Nam. Hiện đang là thời điểm vàng để Việt Nam làm sâu sắc hơn nữa quan hệ kinh tế với Hàn Quốc, mở ra nhiều cơ hội đầu tư hai chiều cho các doanh nghiệp của cả hai quốc gia”.
Ngoài ra, kinh nghiệm thành công trong việc thu hút và giữ chân các nhà đầu tư Hàn Quốc sẽ được nhân lên, giúp Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn nữa đối với các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường toàn cầu, ông lưu ý. “Mặc dù Việt Nam có lợi thế về địa lý, lực lượng lao động trẻ, năng động và chi phí vận hành tương đối thấp, Việt Nam vẫn còn nhiều việc phải làm về hội nhập công nghệ cao, kết nối và bền vững”, ông Kwak Il Hwan từ Tập đoàn YSL cho biết. Giải quyết những khía cạnh này sẽ giúp đất nước thu hút nhiều đầu tư hơn với hàm lượng công nghệ cao và tính bền vững hơn, đồng thời nâng cao lợi thế cạnh tranh của mình trên thị trường toàn cầu, ông nói thêm.
3. Bước tiến đầu tư ở Việt Nam
Theo Chủ tịch KOTRA Lee Jong Seob, khi nhà đầu tư quyết định đặt chi nhánh hoặc nhà máy tại một quốc gia, họ thường hướng đến mục tiêu đầu tư dài hạn ít nhất là 10 – 20 năm. Do đó, họ xem xét các yếu tố như tiềm năng tăng trưởng của thị trường, môi trường kinh doanh ổn định, và sự hỗ trợ nhất quán của chính phủ. Ông nói thêm rằng Việt Nam hướng tới tăng trưởng kinh tế cả định tính và định lượng, môi trường kinh doanh thân thiện và các chính sách nhất quán là cần thiết để đảm bảo rằng các doanh nghiệp FDI, một trong những trụ cột của nền kinh tế Việt Nam, có thể hoạt động lâu dài.
“Hiện có khoảng 9.000 dự án của Hàn Quốc tại Việt Nam, chiếm hơn 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, góp phần vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Và việc ngày càng có nhiều công ty Hàn Quốc đến và hợp tác với các doanh nghiệp tại Việt Nam sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh công nghiệp toàn cầu của cả Việt Nam và Hàn Quốc trong tương lai”, ông Lee Jong Seob nhấn mạnh.
Để thúc đẩy thương mại và đầu tư giữa hai nước, KOTRA đang mở rộng hoạt động, dịch vụ và có kế hoạch hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam và Hàn Quốc tham gia các hội chợ thương mại quy mô lớn và tổ chức các hội thảo về môi trường đầu tư của Việt Nam.
Giám đốc điều hành của Colliers tại Việt Nam cho biết chính phủ đã làm nhiều việc để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài mở rộng kinh doanh tại Việt Nam cũng như thu hút các nhà đầu tư mới. Một ví dụ điển hình là việc thiết lập báo cáo FDI hàng năm của Hiệp hội Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Việt Nam nhằm đánh giá toàn diện kết quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và phân tích môi trường đầu tư của quốc gia.
Ngoài ra, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã xây dựng Cổng thông tin quốc gia về đầu tư để thúc đẩy quản trị dữ liệu và các địa phương cũng đã nghiên cứu các chính sách mới về thuế và ưu đãi đầu tư nước ngoài.
Cũng như ông Jackson, Kwak Il Hwan cho biết, trong thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn, Luật Đầu tư năm 2020 đã hỗ trợ tích cực cho hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài, như bổ sung ngành nghề, đối tượng ưu đãi đầu tư hoặc giảm danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Ông cho biết thêm, việc đẩy nhanh tiến trình xây dựng chính phủ số đã giúp giảm bớt các thủ tục không cần thiết và giúp các doanh nghiệp dễ dàng tìm hiểu và thực hiện nghĩa vụ của mình thông qua các tiện ích công nghệ.
Tuy nhiên, “vẫn còn những vướng mắc trong thực thi chính sách, gây trở ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và chúng tôi nói riêng. Ví dụ, doanh nghiệp không dễ được hưởng ưu đãi đầu tư do thủ tục rườm rà ”, ông Kwak Il Hwan nói. Jackson cũng cho biết có nhiều cơ hội để cải thiện hơn nữa, chẳng hạn như rút ngắn thời gian phê duyệt và thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng, minh bạch hơn, giải thích ngắn gọn các luật và quy định, và các thủ tục hành chính được đơn giản hóa hơn để giảm chi phí tuân thủ, giúp dễ dàng tiếp cận thị trường cho các nhà đầu tư nước ngoài.